Bảo
lộc,
ngày
23
tháng
02
năm
2015
BÀI
VIẾT
NHÂN
DỊP
BUỔI
GẶP
MẶT
QUÍ
THẦY
CÔ
ĐÃ
GIẢNG
DẠY
TẠI
TRƯỜNG
PT
CẤP
2-3
LỘC
THANH
–
BẢO
LỘC
(1985
-
2005)
NHÂN
DỊP
KỶ
NIỆM
30
NĂM
NGÀY
THÀNH
LẬP
TRƯỜNG
(1985
–
2015)
Thầy
Phạm
Đình
Ái
Hiệu
trưởng
(1985-2007)
Kính
thưa
quí
thầy
cô!
Hôm
nay
ngày
1.3.2015
tại
nhà
hàng
cổ
phần
Du
lịch
Bảo
Lộc,
quí
thầy
cô
đã
từng
công
tác
tại
trường
PT
cấp
2
-
3
Lộc
Thanh
từ
năm
1985
đến
2005
gặp
mặt
nhân
dịp
đầu
năm
mới
Ất
Mùi
(2015)
nhân
kỷ
niệm
30
năm
ngày
thành
lập
trường.
Cho
phép
tôi
kính
chúc
quí
thầy
cô
Năm
mới
vạn
sự
như
ý.
Thể
theo
nguyện
vọng
của
một
số
thầy
cô
và
sự
đồng
thuận
của
nhiều
thầy
cô
để
có
1
buổi
gặp
gỡ
đầu
năm
đông
đủ
để
thỏa
nỗi
nhớ
mong,
để
ôn
lại
kỷ
niệm
một
thời,
để
tâm
tình
sau
bao
năm
tháng
xa
cách.
Để
nhớ
lại
một
thời
trong
đời
mình
hữu
duyên
tương
ngộ
dưới
một
mái
trường
mới
thành
lập
tại
một
vùng
quê
và
một
mô
hình
trường
cấp
2
–
3
mới
mẻ
Lộc
Thanh
-
Bảo
Lộc
–
Lâm
Đồng.
Trong
một
thời
điểm
vô
cùng
khó
khăn
của
đất
nước,
của
ngành
giáo
dục
nói
chung
–
nhà
giáo
và
địa
phương
nói
riêng.
Đồng
thời
để
chiêm
nghiệm
các
giá
trị
nhân
văn
mà
định
hướng
tương
lai.
Thời
ấy
cách
đây
30
năm
là
khoảng
thời
gian
khá
dài
trong
một
đời
người,
thời
gian
sẽ
làm
phôi
pha
quá
khứ
nhưng
khi
gặp
lại
người
xưa
bóng
cũ
sẽ
sống
lại
nguyên
tươi,
chính
vì
vậy
cuộc
gặp
gỡ
này
là
tiền
đề
cho
kỷ
niệm
được
tươi
rói
hơn.
Thời
ấy
khi
mới
thành
lập
trường.
Đội
ngũ
giáo
viên
cấp
2
được
tách
từ
phổ
thông
cơ
sở
Lộc
Thanh
sang.
Quý
thầy,
cô
quê
chủ
yếu
là
các
tỉnh
Thanh
-
Nghệ
-
Tĩnh.
Một
số
ở
Hà
Nội
-
Hà
Nam
Ninh
-
Đồng
Nai
-
thành
phố
Hồ
Chí
Minh
và
tốt
nghiệp
chủ
yếu
từ
trường
Cao
đẳng
sư
phạm
Đà
Lạt.
Đội
ngũ
giáo
viên
cấp
3
hầu
hết
từ
cấp
3
Bảo
Lộc
chuyển
vào;
tốt
nghiệp
từ
các
trường
đại
học
sư
phạm
Hà
Nội
–
Vinh
–
Huế
-
thành
phố
Hồ
Chí
Minh.
Tất
cả
các
thầy,
cô
đều
rất
trẻ,
rất
khỏe
và
rất
yêu
đời
yêu
nghề.
Quê
hương
các
thầy,
cô
từ
các
tỉnh
miền
Bắc
–
miền
Trung
và
miền
Nam.
Chỉ
có
3
thầy,
cô
gốc
ở
địa
phương
Thanh,
Phát.
Thời
đó
sau
10
năm
cuộc
kháng
chiến
bảo
vệ
đất
nước
thắng
lợi.
Đất
nước
hòa
bình,
độc
lập,
thống
nhất.
Nhưng
đất
nước
vẫn
còn
vô
vàn
khó
khăn
gian
khổ.
Do
nhiều
nguyên
nhân
nên
lạm
phát
đạt
mức
phi
mã
780%.
Thầy,
cô
giáo
gặp
muôn
vàn
khó
khăn:
lương
thấp,
đồng
tiền
mất
giá.
Khó
từ
chỗ
cái
ăn,
cái
mặc,
chữa
bệnh,
đi
lại,
nuôi
con.
Thiếu
phương
tiện
trong
dạy
học
từ
dầu
đèn
(chưa
có
điện),
văn
phòng
phẩm,
phương
tiện
giao
thông
–
liên
lạc.
Trường
lớp
thiếu
thốn
đủ
thứ,
môi
trường
giáo
dục
không
thuận
lợi,
khuôn
viên
trường
gồm
6
cơ
quan
đóng
(bao
gồm
có
Công
an
xã,
Nhà
văn
hóa,
Nhà
trẻ,
Mẫu
giáo,
Khu
cư
xá
giáo
viên).
Nhưng
nhu
cầu
giáo
dục
lại
rất
cao:
Phải
xây
dựng
Trường
ra
Trường
-
Lớp
ra
lớp.
Thầy
ra
thầy
-
Trò
ra
trò.
Dạy
ra
dạy
-
Học
ra
học.
Nhà
trường
phải
là
trung
tâm
văn
hóa
khoa
học
kỹ
thuật.
Giáo
dục
phải
toàn
diện.
Vì
vậy
giáo
dục
phải
kết
hợp
với
lao
động
sản
xuất
để
tạo
ra
của
cải
vật
chất
cho
xã
hội.
Để
xây
dựng
trường
lớp
và
giáo
dục
toàn
diện
kết
hợp
với
Dạy
chữ
-
Dạy
người
và
dạy
nghề
trong
đó
dạy
người
là
cốt
lõi.
Vì
vậy
thầy,
cô
phải
lao
động
với
cường
độ
cao,
từ
lên
lớp
–
thực
hành
–
ngoại
khóa,
hướng
dẫn
học
và
cùng
học
sinh
đi
lao
động
ở
các
công
nông,
lâm
trường,
làm
vườn
trường
như
hái
trà,
trồng
cà
phê,
trồng
dâu
nuôi
tằm,
đắp
đập
thủy
điện,
trồng
rừng,
làm
tôn
fibrôxi
măng.
Việc
đánh
giá
học
sinh
phải
đạt
4
mặt
(Đức
–
Trí
–
Thể
-
Lao
động
sản
xuất).
Thầy
cô
giáo
phải
rèn
luyện
để
trở
thành
tấm
gương
sáng
cho
học
sinh
noi
theo.
Phần
lớn
thầy
cô
đều
thông
suốt
tư
tưởng
và
hoàn
thành
tốt
nhiệm
vụ
được
giao.
Tuy
vậy
do
quá
khó
khăn
về
đời
sống
nên
một
số
thầy
cô
phải
chuyển
nghề,
chuyển
ngành,
nghỉ
việc,
chuyển
về
quê
và
tìm
đến
nơi
có
điều
kiện
thuận
lợi
hơn.
Giáo
viên
thời
đó
ở
trường
thiếu
trầm
trọng
nên
phải
đi
mượn
thầy
cô
nơi
khác
đến
dạy
giùm.
Xã
Lộc
Thanh
tuy
chỉ
cách
trung
tâm
thị
xã
Bảo
Lộc
4
km
đường
chim
bay
nhưng
đi
lại
rất
khó
khăn.
Địa
phương
xã
là
vùng
thuần
nông.
Người
dân
chủ
yếu
là
dân
di
cư
năm
1954
từ
Thanh
Hóa
vào
theo
đạo
Thiên
chúa
giáo
toàn
tòng
vì
vậy
có
nhiều
khó
khăn
khi
tiếp
cận
nền
giáo
dục
mới.
Học
sinh
thời
đó
không
phải
đóng
học
phí
–
được
mượn
một
bộ
sách
giáo
khoa,
văn
phòng
phẩm
được
phân
phối...
Nhưng
việc
xác
định
mục
đích,
động
cơ,
thái
độ
học
tập
chưa
đúng.
Cộng
vào
đó
do
kinh
tế
khó
khăn,
thể
lực
kém
–
việc
học
chưa
được
phụ
huynh
quan
tâm
đúng
mức,
học
sinh
nghỉ
học
nhiều,
gắng
nặng
đè
lên
vai
các
thầy
cô
càng
nặng.
Khó
khăn
chồng
chất
khó
khăn
phải
chăng
là
dòng
sữa
ngọt
nuôi
nuôi
lớn
tâm
trí
lực
thầy
cô.
Ngôi
trường
phổ
thông
cấp
2
-
3
Lộc
Thanh
lớn
mạnh.
Từ
34
thầy
cô
và
540
học
sinh
năm
1985-1986
lên
134
giáo
viên,
63
lớp
và
2934
học
sinh
năm
học
2004-2005.
Khuôn
viên
trường
được
mở
rộng
từ
10.000
m
2
lên
16.500
m
2.
Từ
6
phòng
học
tạm
lên
38
phòng
học
và
chuyên
dùng.
20
năm
đã
đào
tạo
hơn
10.000
học
sinh
-
nhiều
hơn
dân
số
xã
Lộc
Thanh
thời
đó.
Bước
đầu
Trường
đã
ra
Trường
-
Lớp
ra
lớp.
Thầy
ra
thầy
-
Trò
ra
trò.
Dạy
ra
dạy
-
Học
ra
học.
Hai
mươi
năm
đó
cũng
đã
có
gần
200
thầy
cô
đến
và
ra
đi
từ
mái
trường
này.
Dưới
mái
trường
thời
đó
đã
thấm
đẫm
bao
nhiêu
mồ
hôi,
công
sức
thầy
cô
và
có
những
giọt
nước
mắt
vui
sướng
hạnh
phúc,
đau
thương,
phân
ly
và
cả
tiếng
cười
vui
sướng
–
trưởng
thành
và
khát
vọng
khám
phá.
1.
Hạnh
phúc
Nhiều
thầy
cô
được
xe
duyên
nên
vợ
chồng
–
xây
dựng
tổ
ấm
gia
đình
hạnh
phúc,
con
cháu
khôn
lớn
trưởng
thành.
Có
các
thầy
cô
lên
chức
ông
–
bà,
một
người
lên
chức
cố.
Có
một
cặp
vợ
chồng
duy
nhất
nên
duyên
từ
ngày
thành
lập
trường
đến
nay
vẫn
miệt
mài
cống
hiến
cho
trường.
2.
Trưởng
thành
-
9
thầy
cô
đã
trở
thành
hiệu
trưởng
các
trường
THCS,
THPT
–
Phó
trưởng
phòng
giáo
dục.
-
8
thầy
cô
trở
thành
phó
hiệu
trưởng
các
trưởng
THCS,
THPT.
-
16
thầy
cô
đã
có
học
vị
thạc
sĩ.
3.
Đau
thương
-
1
cháu
là
con
của
thầy
cô
ở
khu
tập
thể
vì
đói
ăn
khoai
mì
bị
ngộ
độc
và
mất.
-
7
thầy
cô
đã
mất
vì
tai
nạn
giao
thông
và
bệnh
hiểm
nghèo.
4.
Khám
phá
Dấu
chân
thầy
cô
đã
đến
đã
in
với
ánh
mắt
sáng
ngời
trên
các
di
sản
quốc
tế
của
Việt
Nam
như
phố
cổ
Hội
An
-
thánh
địa
Mỹ
Sơn
-
Cố
đô
Huế
-
Phong
Nha
Kẻ
Bàng
-
Vịnh
Hạ
Long.
Các
địa
danh
lịch
sử
đường
mòn
Hồ
Chí
Minh
-
làng
Hoàng
Trù,
làng
sen
quê
nội,
ngoại
Bác
Hồ
-
Lăng
Bác
-
Thăng
Long
-
Hà
Nội,
dốc
Fađin
-
Điện
Biên
Phủ.
Chúng
ta
từng
dạo
chơi
trên
đồi
A
1
–
Nóc
hầm
De
Castries,
lên
Sa
Pa,
qua
Cốc
Lếu
-
Lào
Cai,
về
thăm
đất
tổ
Đền
Hùng,
tắm
mát
bãi
biển
Ty
tốp
Hạ
Long
-
Cửa
Lò
Nghệ
An
-
Cửa
Tùng
Quảng
Trị
-
Thuận
An
Huế
-
Mỹ
Khê
Đà
Nẵng
-
Quy
Nhơn
-
Hòn
Tằm
-
Hải
Sơn,
Dốc
Lết
Nha
Trang
-
Mũi
Né
Phan
Thiết
-
bãi
sau
Vũng
Tàu
-
bãi
biển
Hà
Tiên
Phú
Quốc
qua
những
chuyến
xe
xuyên
Việt,
tàu
cao
tốc,
cánh
ngầm
theo
sông
theo
biển
tự
hào
đầy
ắp
kỷ
niệm
…
5.
Chia
ly
28
thầy
cô
đã
nghỉ
hưu,
3
thầy
cô
định
cư
ở
nước
ngoài,
60
thầy
cô
chuyển
về
quê.
6.
Phân
ly
Năm
học
2005-2006
tách
cấp
2
thành
trường
THCS
Chu
Văn
An.
Tách
hệ
B
thành
TH
cấp
2,3
Lộc
Phát.
Trường
THPT
Lộc
Thanh
ở
lại
trên
khuôn
viên
cũ
và
10
năm
sau
đã
trở
thành
Trường
chuẩn
quốc
gia.
7.
Chiêm
nghiệm
Phải
chăng:
“Cây
cay
đắng
đã
cho
mùa
quả
ngọt”,
chúng
ta
những
người
có
mặt
hôm
nay,
những
người
vắng
mặt
và
những
người
đã
khuất
có
quyền
tự
hào
điều
đó.
Vì
thầy
cô
là
linh
hồn
nhà
trường
sẽ
sống
mãi
trong
lòng
nhà
trường
và
bao
thế
hệ
học
sinh,
phụ
huynh
thân
thương.
8.
Hứa
hẹn
gì
cho
tương
lai,
cho
thầy
cô
tương
lai?
Cho
3
mái
trường
từ
đó
mà
ra
Thành
đạt
và
hạnh
phúc
-
Hứa
hẹn
lần
gặp
mặt
tương
lai.
Đông
đủ
đầy
hơn
thầy
cô
-
gia
đình
chồng
vợ
-
ông
bà
-
cháu
con./.
Chú
ý:
Việc
đăng
lại
bài
viết
trên
ở
website
hoặc
các
phương
tiện
truyền
thông
khác
mà
không
ghi
rõ
nguồn
http://locthanhbaoloc.lamdong.edu.vn
là
vi
phạm
bản
quyền